Alan Phan
Mọi người tiêu thụ đều thấy rằng hàng Trung Quốc tràn ngập Việt Nam,
ngay cả trong những sản phẩm mà chúng ta có lợi thế về khí hậu, thổ
nhưỡng như nông sản, thực phẩm…Trong khi đó, chúng ta xuất khẩu phần lớn
các khoáng sản hay tài nguyên thiên nhiên qua Trung Quốc để họ chế biến
sơ xài rồi tái bán ra những thành phẩm với giá cao gấp vài lần. Các sản
xuất công nghiệp thì phụ thuộc hoàn toàn vào nguyên liệu, máy móc và
công nghệ cũ của Trung Quốc, nhất là ngành dệt may, giầy dép, đồ gia
dụng…Ngay cả trong lĩnh vực dịch vụ như du lịch, giải trí (phim ảnh,
TV..), video games…Trung Quốc là nhà cung cấp hàng đầu trên thị trường.
Quan trọng hơn, những dự án tầm cỡ quốc gia về điện lực, khoáng sản,
giao thông….90% nhà thầu là công ty Trung Quốc.
Con số chứng minh hiện trạng trên biểu hiện theo thống kê nhập siêu
của Việt Nam: trong 2012, chúng ta xuất qua Trung Quốc 19 tỷ USD và phải
nhập khẩu đến gần 40 tỷ USD từ Trung Quốc.
Muốn tìm giải pháp cho vấn đề này để thoát ra khỏi sự lệ thuộc vào
Trung Quốc trên mọi bình diện, chúng ta cần biết rõ những nguyên nhân đã
gây ra sự áp đảo một chiều này:
1. Vị trí địa dư
Nằm cạnh một quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới tất nhiên
Việt Nam phải chịu nhiều tác động. Các cường quốc luôn có tham vọng bành
trướng ảnh hưởng để thu lợi từ các quốc gia nhỏ bé hơn và các nước láng
giềng có thể coi như là “low-hanging fruits” (trái quả ở vị trí thấp)
dễ hái và thu nhặt trước.
Tuy nhiên, khi so sánh vị thế của Mexico và Canada cạnh Mỹ, ta có thể
nhận biết sự khác biệt: dù ít dân hơn Mexico, Canada đã được Mỹ đối xử
như một đối tác bình đẳng; và trong quan hệ kinh tế, Canada còn lợi dụng
sự to lớn của thị trường Mỹ để tăng trưởng. Trong khi đó, với cơ chế
lạc hậu và dân trí thấp kém, Mexico cam phận là sân sau của kinh tế Mỹ,
gần giống như Việt Nam với Trung Quốc.
Trong thế chiến thứ hai, phát xít Đức đè bẹp các nước láng giềng,
nhưng lại rất tôn trọng sự trung lập của Thuỵ Sĩ và các nước Bắc Âu. Một
chánh sách khôn ngoan, chủ động của chánh phủ và một tầng lớp nhân dân
giàu có dựa trên nền kinh tế độc lập là sự khác biệt giữa nô lệ và chủ
quyền.
2. Yếu tố lịch sử
Sự bành trướng của các đế quốc trong lịch sử đều dựa vào tiền đề là
xâm lược để tìm những tài nguyên hay tài sản nào mà đế quốc cần. Trong
lịch sử Trung Quốc, nạn đói vì thiếu đất trồng trọt đã khiến quân đội
Trung Quốc luân phiên Nam tiến để thoả mãn bao tử của con dân. Đông Nam Á
là miếng mồi hấp dẫn qua mọi triều đại, kể cả những cuộc di dân khổng
lồ của người Trung Quốc để tránh bạo loạn trong nội địa.
Việt Nam là một điểm đến quen thuộc qua nhiều ngàn năm. Trong chiến
dịch mới nhất, Trung Quốc đã dụ được các lãnh đạo Việt Nam bằng chiêu
bài “lý tưởng quốc tế đại đồng” (theo góc nhìn của các hoàng đế Trung
Quốc là “Hán hoá”), và họ đã thành công vì bất chiến tự nhiên thành.
Nhìn vào một lăng kính khác, hiện nay, nhu cầu của đế quốc Mỹ là “trí
tuệ và sáng tạo” cho nền kinh tế dựa trên công nghệ cao. Không như
Trung Quốc, Mỹ không cần đến dầu khí, khoáng sản hay nông phẩm từ Việt
Nam; và chắc chắn là không nhắm vào thị trường đồ rẻ tiền.
Thực ra, chính Mỹ đã giúp 2 quốc gia đông dân nhất là Trung Quốc và
Ấn Độ phát triển nhanh để gia tăng tài sản mềm cũng như để bành trướng
thêm thị trường cho các sản phẩm cao cấp của Mỹ. Họ có thể là đối tác lý
tưởng để Việt Nam thay đổi cốt rễ của nền kinh tế và tăng trưởng theo
mức độ của Nhật Bản và Hàn Quốc.
Tuy nhiên, giải pháp này không khả thi “vì ván đã đóng thuyền”. Khi
cá đã cắn câu và chim đã vào lồng rồi, thì đành “lỡ bước sang ngang”
vậy?
3. Mối tình đồng chí
Đa số lãnh đạo Việt Nam đã học tập rất tốt theo tấm gương Bác Hồ để
kết thân và tạo những “mối tình” sâu xa với các đồng chí Trung Quốc
(cũng như với anh sở khanh Liên Xô). Đây là một điều khó lý giải theo
biện chứng khoa học, tuy vậy, mọi người đều hiểu rằng con tim có những
lý lẽ riêng của nó.
Hội chứng người vợ bênh vực và sát cánh bên chồng, không rời bỏ được,
dù gặp phài anh chồng vũ phu, bê bối, truỵ lạc…là một bệnh tâm lý phổ
thông trên toàn cầu.
Xã hội Mỹ dù lên án và bắt nhốt ngay các loại “chồng” này, nhưng thảm
hoạ vẫn tồn tại mạnh mẽ, nhất là trong những cộng đồng thiểu số nghèo
hèn. Văn hoá và pháp luật Việt Nam vẫn còn bảo thủ; nên chuyện yêu đương
bệnh hoạn của các đồng chí Việt Trung sẽ còn tiếp tục vài ba thế hệ.
4. Môi trường quen thuộc
Doanh nhân Trung Quốc rất thích môi trường kinh doanh tại Việt Nam vì
sự quen thuộc như sân nhà. Nhờ một sao chép khá tỉ mỉ về mô hình, cơ
chế, văn hoá và ứng dụng vào mọi sinh hoạt của đàn em Việt, các doanh
nhân Trung Quốc không chút bở ngỡ hay phải điều chỉnh tư duy làm ăn của
họ khi đến Việt Nam. Sự quen thuộc tạo một lợi thế cạnh tranh lớn cho
Trung Quốc so với các quốc gia khác.
Thông thường, một nhà đầu tư hay một thương nhân nước ngoài phải mất
chừng 6 tháng đến 2 năm để làm quen với thủ tục hành chánh và luật lệ,
tạo quan hệ với quan chức và đối tác, đi sâu vào các ngõ ngách của thị
trường và thói quen của người tiêu dùng….Vì lối vận hành giống như một
tỉnh của Trung Quốc, các doanh nhân Trung Quốc đốt ngắn giai đoạn và
phát triển cơ sở, mạng lưới rất nhanh. Có thể nói, Việt Nam là điểm đến
đầu tiên khi doanh nhân Trung Quốc cứu xét các cơ hội làm ăn cho công ty
mình.
5. Chính sách của chánh phủ Việt Nam
Quan điểm chung của đa số lãnh đạo Việt Nam là Trung Quốc đã góp phần
rất lớn vào các chiến thắng đánh Pháp, Mỹ và VNCH để Đảng và nhà nước
có được quyền lực và quyền lợi ngày nay. Đó là một cái ơn nghĩa lớn hơn
cả Thái Sơn như một ngài lý thuyết gia của Đảng (không nhớ tên) phát
biểu trong một tiểu luận. Thêm vào đó, sau sự sụp đổ của đế chế Liên Xô,
Trung Quốc là chỗ tựa lưng duy nhất của nhà cầm quyền.
Từ đó, doanh nhân Trung Quốc thừa hưởng những đặc quyền, đặc lợi từ
nhiều dự án lớn nhỏ. Để tránh những dòm ngó của những thế lực chống đối,
nhiều công ty Trung Quốc khi đầu tư hay mua bán làm ăn tại Việt Nam
phải dùng vỏ bọc của BVI, Bermuda, Hồng Kong, Đài Loan…Nếu tính ra chủ
nhân thực sự sau của những nhà đầu tư và doanh nhân này, Trung Quốc mới
là nhà đầu tư số một tại Việt Nam. Con số nhập siêu của Việt Nam từ
Trung Quốc có thể lớn hơn nữa nếu thống kê bao gồm những điểm trung gian
tiếp cận hàng hoá.
6. Tệ nạn phong bì
Các lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam đều thừa nhận sự tham nhũng
tràn lan tại khắp miền lãnh thổ. “Họ ăn không chừa một thứ gì…” là câu
nói tiêu biểu.
Trong khi đó, có thể nói doanh nhân Trung Quốc năng động và nổi tiếng
về nghệ thuật hối lộ. Trên khắp thế giới, các quan chức, kể cả Âu Mỹ,
đều thích làm ăn với thương gia Trung Quốc. Chỗ nào không đưa được phong
bì thì họ sẽ tìm cách khác để đưa quà hay lợi lộc nào đó để né tránh
luật lệ.
Với thái độ cởi mở về phong bì, Việt Nam là một thiên đường để doanh
nhân Trung Quốc tự do lợi dụng và hưởng lợi. Ngoài ra, trong khi doanh
nhân Âu Mỹ Nhật lo sợ về chuyện phạm pháp tù đày vì luật lệ xứ sở của họ
cấm hối lộ; thì chánh phủ Trung Quốc khuyến khích doanh nhân nước họ
dùng phong bì như là một vũ khí thương mại hiệu quả.
7. Kỹ năng của doanh nhân Trung Quốc
Sau cùng, chúng ta phải công nhận là doanh nhân Trung Quốc rất giỏi
trong việc đột phá tìm thị trường và tạo ra những vị thế độc tôn. Dù
không sáng tạo như người Do Thái, dân làm ăn Trung Quốc kiên nhẫn, thủ
đoạn, cần cù, nắm bắt cơ hội, chịu đựng rủi ro…hay hơn mọi doanh nhân
thế giới. Họ cũng ngoại giao tài tình: không ai mới hợp tác với doanh
nhân Trung Quốc mà không choáng ngợp với sự tiếp đãi nồng hậu thân
thương. Chỉ sau một thời gian, khi cá đã cắn câu, thì chúng ta mới nhận
ra thế kẹt của mình.
Cộng với kỹ năng, mạng lưới Hoa Kiều tại năm châu và sự trợ giúp tận
tình của chánh phủ Trung Quốc qua các tín dụng dễ dãi đã tăng thêm lợi
thế cạnh tranh này.
Lời kết
Sự áp đảo kinh tế và chính trị của Trung Quốc với Việt Nam là một
hiện thực với nhiều yếu tố khách quan khó vượt qua. Tuy nhiên, yếu tố
quan trọng nhất vẫn là một quyết tâm của lãnh đạo xây dựng cho đất nước
một vị thế đáng nể trên góc nhìn của thế giới.
Sự nể trọng này, nhất là đối với Trung Quốc, có thể đến từ các yếu tố:
- Hành động thay vì những lời tuyên bố lảm nhảm không ai tin;
- Mở rộng cửa đón nhận nhà đầu tư và đối tác khắp thế giới để giảm sự chi phối của Trung Quốc trong nền kinh tế;
- Cởi trói cho khu vực tư nhân để doanh nhân Việt Nam tự do tìm định hướng mới cho nền kinh tế với bản sắc Việt;
- Giảm gánh nặng hành chánh, thuế má, nợ vay nước ngoài…bắng cách sa thải 2 phần 3 công chức;
- Nâng cao dân trí bằng sự minh bạch với các lỗi lầm trong
quá khứ và đem kiến thức toàn cầu đến người dân bằng tự do Internet.
“Thoát Trung” có thể là một đề tài thời thượng cho các chuyên gia
rảnh rỗi chém gió. “Thoát Ta’ mới là một nhu cầu cấp bách để đưa Việt
Nam vào thế kỷ 21.
Alan Phan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét